Một tiến trình kéo dài nhiều năm như vậy chứng tỏ các cơ quan có tránh nhiệm đã rất thận trọng. Tuy nhiên, vẫn còn một số điều cần xem xét thêm.
Trong phần giải thích từ ngữ của Nghị định có nói đến 3 trường hợp cụ thể được xác định là có khuyết tật bẩm sinh về giới tính bao gồm: 1) Nữ lưỡng giới giả nam 2) nam lưỡng giới giả nữ hoặc 3) lưỡng giới thật.
Ngày nay, những nước có nhiều kinh nghiệm hơn ta về khoa học nghiên cứu về giới không còn dùng cụm từ này nữa vì không phù hợp.

Tại sao thuật ngữ lưỡng giới không phù hợp với thực trạng người bệnh? Vì các thầy thuốc trước đây tin rằng tuyến sinh dục là dấu hiệu chủ yếu để xếp con người thuộc giới nào do đó đã đặt ra một loạt tên gọi không dựa trên hiểu biết về gen học, nội tiết học hay bào thai học và phân những người có giới không rõ nam hay nữ thành nhiều loại như “ái nam ái nữ giả kiểu nam” (male pseudohermaphroditism), “ái nam ái nữ giả kiểu nữ” (female pseudohermaphroditism; hay “ái nam ái nữ đích thực” (true hermaphroditism).
Nữ lưỡng giới giả nam là thế nào? (Thuật ngữ nêu trong Nghị định nhưng thực ra nên gọi Giới mơ hồ với nhiễm sắc đồ kiểu nữ - đề nghị của người viết bài).
Bệnh cảnh: Có nhiễm sắc đồ kiểu nữ (46, XX), có 2 buồng trứng nhưng cơ quan sinh dục ngoài lại giống như nam, thường do trong thời kỳ phôi thai, thai nhi nữ bị phơi nhiễm quá nhiều với hormon nam ngay từ khi chưa sinh ra. Môi lớn và môi nhỏ của cơ quan sinh dục nữ dính vào nhau nên trông giống như bìu và âm vật phát triển to giống như dương vật. Thường vẫn có tử cung và 2 vòi trứng bình thường. Bệnh này còn gọi là bệnh có nhiễm sắc đồ 46, XX kèm nam tính hóa hoặc vẫn quen gọi là lưỡng giới giả nữ (female pseudohermaphroditism).
Có thể do nhiều nguyên nhân: Thường gặp nhất là quá sản bẩm sinh tuyến thượng thận - Người mẹ dùng hormon nam (như testosteron) trong thời gian có thai - Người mẹ có khối u tiết ra hormon nam; những khối u thường gặp nhất là những khối u buồng trứng. Vì thế những người mẹ sinh con có giới tính không rõ nam hay nữ và nhiễm sắc đồ 46, XX cần được kiểm tra trừ phi đã tìm ra nguyên nhân khác rõ ràng - Thiếu hụt enzym aromatase, trường hợp này có khi đến tuổi dậy thì mới phát hiện ra. Aromatase là enzym trong điều kiện bình thường chuyển hormon nam thành hormon nữ. Quá nhiều aromatase có thể dẫn đến có quá nhiều hormon nữ estrogen và quá ít dẫn đến trẻ có nhiễm sắc đồ 46, XX và có giới tính mơ hồ. Đến tuổi dậy thì, những trẻ XX nhưng đã từng được nuôi dạy như con gái có thể bắt đầu có những đặc tính của con trai.
Nam lưỡng giới giả nữ là thế nào? (Thuật ngữ nêu trong Nghị định nhưng thực ra nên gọi là Giới mơ hồ với nhiễm sắc đồ kiểu nam).
Bệnh cảnh: Có nhiễm sắc đồ kiểu nam 46, XX nhưng cơ quan sinh dục ngoài lại không thành hình hoàn chỉnh, không rõ nam hay nữ hoặc rõ là con gái. Bên trong cơ thể thì 2 tinh hoàn có thể bình thường hay dị tật hay không có. Bệnh lý này cũng gọi là bệnh có nhiễm sắc đồ 46, XY nhưng không nam tính hóa, vẫn thường quen gọi là lưỡng giới giả nam. Sự tạo thành cơ quan sinh dục ngoài kiểu nam bình thường phụ thuộc vào sự cân bằng phù hợp giữa hormon nam và nữ; do đó cần tiết ra đủ hormon nam và những hormon này có hoạt động tốt. Người có giới mơ hồ nhưng có nhiễm sắc đồ kiểu nam 46, XY có thể do những nguyên nhân sau:
Có vấn đề ở tinh hoàn. Hai tinh hoàn bình thường tiết ra hormon nam nhưng nếu hai tinh hoàn không được cấu tạo đầy đủ thì sẽ dẫn đến hiện tượng nam tính hóa kém. Một số nguyên nhân có thể gây ra tình trạng này trong đó có loạn sản tuyến sinh dục đơn thuần trên người có cặp nhiễm sắc thể giới XY - Có vấn đề ở sự tạo thành testosteron. Testosteron được tạo nên thông qua nhiều bước mà mỗi bước lại cần có những enzym khác nhau. Thiếu hụt bất cứ enzym nào cũng có thể dẫn đến tiết không đủ testosteron và gây ra một hội chứng khác ở người có giới tính mơ hồ nhưng vẫn có nhiễm sắc đồ 46, XY. Nhiều dạng khác (týp) của bệnh quá sản bẩm sinh tuyến thượng thận có thể rơi vào loại này - Có vấn đề với việc sử dụng testosteron nghĩa là một số người vẫn tiết đủ lượng testosteron nhưng vẫn có giới tính mơ hồ với nhiễm sắc đồ 46, XY. Ngoài ra, còn có một số nguyên nhân khác.
Lưỡng giới thật là thế nào? (Thuật ngữ nêu trong Nghị định).
Gọi là lưỡng giới đích thực khi có cả 2 tuyến sinh dục (cả tinh hoàn và buồng trứng) tồn tại trên một cá thể, từ sự cố về gen học và cũng rất hiếm. Những người này có thể sống được nhưng không thể sinh sản và hạn chế về khả năng tình dục vì các hormon nam đã triệt tiêu tác dụng của các hormon nữ và ngược lại.
Hai loại mô buồng trứng và tinh hoàn có thể trên cùng tuyến sinh dục (ovotestis) hay có một buồng trứng và một tinh hoàn riêng biệt. Người bệnh có thể có nhiễm sắc thể giới XX hoặc XY hay cả hai.
Cơ quan sinh dục ngoài có thể mơ hồ, vừa có vẻ như nam vừa có vẻ như nữ, trước đây quen gọi là ái nam ái nữ. Hầu hết những người có giới tính bên ngoài mơ hồ cùng với cả 2 loại mô tuyến sinh dục trong cơ thể thường không có nguyên nhân rõ mặc dù ở một số nghiên cứu trên động vật thấy có liên quan đến việc phơi nhiễm với một số thuốc trừ sâu thường dùng trong nông nghiệp.
Ngoài ra, còn có hình thái giới mơ hồ phức tạp hay không xác định được với cấu trúc nhiễm sắc thể khác với cấu trúc đơn giản (46, XX hay 46, XY) và có thể gây ra những bệnh về phát triển giới như 45, XO (chỉ có một X) và 47, XXY; 47 XXX - cả 2 loại này đều có nhiễm sắc thể giới thừa, hoặc X hoặc Y.
Ngay cả khi chưa có Nghị định thì các thầy thuốc đã từng phải giải quyết các trường hợp bệnh nhân có giới mơ hồ, ví dụ sửa lại âm vật to với nhiễm sắc đồ kiểu nữ vì thực chất họ là nữ về mặt gen học (giới nhiễm sắc đồ 46, XX) hoặc can thiệp ngoại khoa với người có nhiễm sắc đồ kiểu nam 46, XY nhưng cơ quan sinh dục ngoài lại không thành hình hoàn chỉnh, không rõ nam hay nữ. Những cách can thiệp này gọi là tạo hình lại cơ quan sinh dục ngoài cho phù hợp với cấu trúc gen học, không nên gọi là Xác định lại giới tính như văn bản Nghị định.
Điều Nghị định cấm có thể là nhu cầu của một bộ phận người dân?
Hành vi nghiêm cấm đầu tiên của Nghị định (Điều 4) là không được thực hiện việc chuyển đổi giới tính đối với những người đã hoàn thiện về giới tính. Câu này có nghĩa là những người đã có đủ các yếu tố để coi là nam hay nữ (có giới gen học là XX hoặc XY; có cơ quan sinh dục ngoài và trong thuộc nam hay nữ) không thuộc diện được xác định lại giới tính.
![]() Một số cá thể có hiện tượng bức bối về giới tính. Ảnh: Google.
|
Bản sắc giới là cảm nhận của mỗi người thấy mình thuộc giới nào đó. Rối loạn bản sắc giới là trạng thái mà một người khi đã được xác định là thuộc giới nào đó (thông thường dựa trên cơ quan sinh dục ngoài) nhưng lại phát triển hành vi ứng xử, tính cách, cảm xúc theo giới đối lập hoặc cảm thấy không thích hợp với vai trò giới mà xã hội quy định cho họ. Cảm giác đó vẫn luôn có ở họ nhưng có khi đến tuổi vị thành niên hay tuổi trưởng thành mới bộc lộ và cảm giác đó còn có thể ngày càng mạnh lên theo thời gian. Trong khi chỉ dựa trên cơ quan sinh dục ngoài để quy định là nam hay nữ thì sự phát triển bản sắc giới lại do nhiều yếu tố phức tạp quyết định. Bệnh sinh rối loạn bản sắc giới còn có nhiều giả định nhưng là một cái gì đó tồn tại thực sự, không phụ thuộc vào giới sinh học.
Thể cực đoan nhất của rối loạn bản sắc giới là hội chứng bức bối về giới. Nước ta chưa thống kê chính thức về bộ phận dân số này nhưng quyền lợi được chuyển giới chính đáng của họ đang được quan tâm trên phạm vi toàn thế giới. Những người có trạng thái bức bối về giới thể hiện những đặc tính sau:
1. Cảm giác mình thuộc về giới đối lập và giới giải phẫu (hay giới sinh học) hiện có là một sự lầm lẫn của tạo hóa.
2. Cảm giác khó chịu với chính cơ thể mình đến mức ghê sợ chính giới sinh học của mình.
3. Tha thiết mong muốn có ngoại hình giống như giới đối lập, muốn được điều trị kể cả phải phẫu thuật.
4. Mong muốn được cộng đồng công nhận mình là giới đối lập.
5. Cảm giác và niềm tin mình là giới đối lập rất bền vững, thường đã có ngay từ khi còn là trẻ nhỏ.
6. Không kèm theo bệnh thực thể hay bệnh tâm thần nào, ví dụ như tâm thần phân liệt.
Quyết định chuyển giới không phải là ý muốn ngẫu hứng của cá nhân mà có sự xem xét kỹ, thận trọng của một nhóm chuyên gia gồm các thầy thuốc, các chuyên gia tâm lý.
Khi đã được chẩn đoán là có trạng thái thích sống theo giới khác thì chỉ định phẫu thuật chuyển giới dựa trên những tiêu chuẩn nghiêm ngặt do Hội quốc tế về trạng thái bức bối về giới mang tên Harry Benjamin đề ra (1985) nhằm giúp cho một cá thể có chất lượng sống tốt hơn:
1. Người bệnh có xu hướng ổn định muốn sống theo giới đối lập.
2. Người bệnh cần cảm nhận sâu sắc về tình trạng của bản thân và không bị bất cứ một rối nhiễu tâm lý nào.
3. Bệnh nhân có thể chuyển qua giới đối lập một cách có kết quả và có biểu hiện của hoạt động bình thường theo giới đối lập.
4. Sự cải thiện về đời sống cá nhân và xã hội cần được dự báo trước cho những người được chuyển giới trước và sau phẫu thuật.
Nhiều nước trên thế giới đã có những thể chế pháp luật về chuyển giới, với những điều luật phù hợp với sự phát triển văn hóa của từng nước.
Nghị định về xác định lại giới tính ở nước ta chưa đề cập đến rối loạn bản sắc giới - một lý do quan trọng khiến một số người muốn chuyển giới.
Thiết nghĩ cho phép chuyển giới là một động thái hòa nhập với xu thế chung toàn cầu, dẫn đến hệ quả tích cực hơn về tôn trọng quyền con người, mở ra cơ hội cho một nhóm dân số tiếp cận chất lượng sống, sức khỏe tình dục.
BS. Đào Xuân Dũng
- 07/07/2009 06:26 - Cách chăm sóc và bảo vệ “con giống”
- 07/07/2009 06:25 - Ba món ăn giúp các quý ông khắc phục chứng xuất tinh sớm
- 07/07/2009 06:21 - Vợ chồng lệch tuổi có lệch “yêu”?
- 07/07/2009 06:18 - Lệch pha trong đời sống tình dục
- 07/07/2009 06:15 - Thừa tình yêu, thiếu kiến thức
- 07/07/2009 00:42 - Giọng nói và năng lực tình dục
- 07/07/2009 00:40 - Chất lượng “tinh binh”
- 07/07/2009 00:37 - "Nữ thập tam" thời @
- 07/07/2009 00:34 - Các bệnh thường gặp ở bé gái
- 07/07/2009 00:33 - Thủ dâm có phải là tội lỗi?