![]() Chỉ nên đẻ mổ khi có chỉ định của bác sỹ
|
Các chỉ định do tình trạng sức khỏe của mẹ:
- Xương chậu hẹp hoặc bị lệch.
- Tình trạng bệnh của mẹ sẽ trở nên trầm trọng nếu đẻ thường do mắc các bệnh về tim, hô hấp, suy thận nặng.
- Các chứng bệnh của mẹ ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe của bào thai: bệnh đái tháo đường, sự không tương hợp nhóm máu.
- Các di chứng của việc can thiệp trên đáy chậu do các chấn thương trước, dị tật, khối u.
- Tử cung không bình thường hoặc có sẹo.
- Các nguyên nhân do tai nạn hoặc không thể dự báo trước: không có hoặc rối loạn co thắt mặc dù đã được điều trị thuốc trong thời gian chuyển dạ.
- Nhau thai thu lại hoàn toàn hay một phần làm tăng nguy cơ xuất huyết.
- U xơ ở vị trí thấp không cho phép một cuộc vượt cạn bình thường.
- Các chứng bệnh của mẹ ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe của bào thai: bệnh đái tháo đường, sự không tương hợp nhóm máu.
- Các di chứng của việc can thiệp trên đáy chậu do các chấn thương trước, dị tật, khối u.
- Tử cung không bình thường hoặc có sẹo.
- Các nguyên nhân do tai nạn hoặc không thể dự báo trước: không có hoặc rối loạn co thắt mặc dù đã được điều trị thuốc trong thời gian chuyển dạ.
- Nhau thai thu lại hoàn toàn hay một phần làm tăng nguy cơ xuất huyết.
- U xơ ở vị trí thấp không cho phép một cuộc vượt cạn bình thường.
Các chỉ định liên quan đến thai nhi:
- Sự sa dây chằng, vỡ nước ối, chứng kinh giật
- Khi bác sỹ phát hiện thấy sự thay đổi bất thường của nhịp tim thai
- Những rối loạn trong việc theo dõi thai trên máy theo dõi điện tử
- Khi thai ngược, không xoay đúng tư thế hay các yếu tố khác như thai quá to (trên 4.000 gr) trong khi xương chậu của mẹ hẹp
- Phụ nữ nhiều tuổi sinh con so
- Co thắt tử cung kém.
Những hậu quả của đẻ mổ
Trong trường hợp đẻ mổ, thai phụ thường mệt mỏi nhiều hơn đẻ thường do phải chịu một lần phẫu thuật. Ngoài ra, những vết sẹo từ vết mổ cũng làm cho bà mẹ đau đớn do tác động của những cơn co thắt tử cung sau khi sinh. Tuyến sữa hoạt động chậm hơn và phải mất vài ngày mới có khả năng cung cấp cho em bé.
Đẻ mổ được coi là biện pháp tương đối an toàn cho thai nhi, nhưng đối với mẹ thì không hẳn như vậy. Nguy cơ nhiễm trùng từ vết mổ cao gấp ba lần so với đẻ thường, thêm vào đó là nguy cơ gây viêm tĩnh mạch, nghẽn động mạch phổi và băng huyết cũng cao hơn mức bình thường. Nhiều nghiên cứu cho thấy đẻ mổ cũng ảnh hưởng tới sự hình thành mối quan hệ tình cảm đầu tiên giữa mẹ và bé. Nhiều người thường cho rằng đẻ mổ an toàn hơn đẻ thường, nhưng thực tế ngược lại. Thống kê cho thấy tỷ lệ sản phụ tử vong khi đẻ mổ cao gấp 4 đến 5 lần đẻ thường.
Vì những lý do này, biện pháp mổ đẻ chỉ nên thực hiện trong các trường hợp bệnh lý và cần phải hạn chế tới mức thấp nhất, mặc dù những tiến bộ của y học hiện nay đã làm cho phương pháp này được thực hiện dễ dàng và an toàn hơn trước rất nhiều.
Theo Tạp chí Mẹ và bé
Tin mới hơn:
- 10/07/2009 16:34 - Lời khuyên dành cho những bà bầu đi làm
- 10/07/2009 16:33 - Đủ cân để làm mẹ
- 10/07/2009 16:17 - Sôcôla làm giảm nguy cơ tiền kinh giật ở thai phụ
- 10/07/2009 16:15 - Những bài tập đơn giản sau sinh
- 10/07/2009 16:14 - Thận trọng khi sử dụng thuốc cho phụ nữ mang thai
Tin cũ hơn:
- 10/07/2009 15:43 - Mẹ thiếu vitamin D, con dễ bị mềm sọ
- 23/06/2009 20:11 - Viêm thận-tiết niệu ở phụ nữ mang thai
- 21/04/2008 10:55 - Một số bệnh mạn tính và thai nghén